22/8/13

Bài Dự Thi 150 Năm Lasan số 15: Vẫn Còn Tiếng Chim Hót

Bài viết dự thi "Mái Trường La San Thân Yêu" số 15 của tác giả Vương Hữu Thái, tựa đề "Vẫn Còn Tiếng Chim Hót"
Chúng tôi vẫn đang tiếp tục nhận bài dự thi, xin gửi về info@lasan150.org hay webls150@gmail.com


VẪN CÒN TIẾNG CHIM HÓT

Mùa hè  1972 kết thúc, một mùa hè đầy rẫy những biến cố sôi động của thời cuộc trong hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ, những người học sinh nhỏ bé như lứa tuổi tôi dẫu vô tư thế nào cũng khó dửng dưng trong sự biến động của dòng xoáy cuộc đời ấy. Tôi bắt đầu đặt câu hỏi với những gì như đang hiện hữu trước mặt mình, dầu phôi phai dầu khó hiểu ? Có lúc tôi nhủ thầm tương lai sẽ đi về đâu, rồi sẽ thế nào? Và hỏi tức là có câu trả lời, tôi hiểu phải chăng đó là một phần cái giai đoạn được ngồi ghế nhà trường, bởi kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của chính mình…may mắn thay, tôi đã có thể tự an tâm nhờ vào chỗ dựa khá vững chắc là gia đình và còn phần nữa là sự giáo dục của các Sư Huynh LaSan , phải chăng chiếc áo dòng đen khá uy nghi - với cái cổ may rabat màu trắng vuông vức chẻ giữa- như đã trấn tĩnh tôi trước một cuộc sống luôn gợn sóng và dẫn dắt tôi những bước chân chập chững đi vào cuộc đời…

Đó là mùa hè băn khoăn không còn quá vô tư như các mùa hè trước, không còn quá nhiều bước chân tung tăng chạy nhảy và đi qua những miền đất thảnh thơi, để rồi bao điều chờ đợi cũng lại đến. Đó là giây phút tựu trường Trung Học LaSan Kbuôn BanMêThuột  niên khóa 1972-1973, khi tôi bước vào Lớp 8A1 thì những nụ cười tươi xinh, những cái nắm tay, rồi mùi của những sách vở bút mực mới toanh, đã đưa tôi vào một thế giới nhà trường đầy rẫy những câu chuyện và một tuổi thần tiên ẩn trong tiềm thức của cái thời đã trôi qua.

Năm học ấy Sư Huynh Francois Nguyễn Văn Sắc được cử phụ trách lớp tôi và là Giám Học Trung Học Đệ I Cấp, với dáng dấp gầy guộc, mái tóc bạc gần hết có lẽ cũng trên tuổi ngũ tuần nhưng đi đứng rất nhanh như trai trẻ,có lẽ Frère mới đổi từ Đà Lạt về đây và trước đó trong thời kỳ thành lập LaSan BanMêThuột những năm 60 Frère cũng từng góp sức trên vùng đất này. Frère dạy chúng tôi môn Giáo Lý và Frère nói tiếng Pháp rất chuẩn khi dạy học, lúc đó LaSan đã chọn Anh Văn là sinh ngữ I( SNchính) và Pháp Văn là Sinh Ngữ II( SN phụ)  chỉ dạy ở lớp 11-12 cũng như hầu hết xu hướng tại các trường khác.

Tôi ghi nhận trong suốt năm học Frère Francois có một vẻ rất nhiệt thành, đạo đức và khi có điều cần thiết thường căn dặn rất dài, với chủ đích giúp chúng tôi thấm đậm vào trong tâm can bởi Frère quan niệm học sinh phải được dạy dỗ chu đáo để trở nên con người có ích cho bản thân và xã hội,.Ngay ngày đầu Frère bắt chúng tôi ghi chép vào vở môn học Giáo Lý những dòng đầu tiên giống như tại các nơi Frère đã từng giảng dạy:

Chiến Đấu

Con người anh dũng không bao giờ ngưng chiến đấu.

Chiến đấu với bản thân, Chiến đấu trước mọi cám dỗ của tội lỗi và sự dữ.

Chiến đấu trong lúc gian nan.

Chiến đấu để xứng đáng là môn đệ của Chúa KiTo…

Riêng dòng cuối cùng tôi có thể nhớ không trọn vẹn. Môn Giáo Lý ngoài việc trích dẫn kinh thánh để nhận biết chân lý Chúa Kito và có thể nhận ra ngay trong thực tại trần gian ở  những diễn tiến của thế giới đương đại, và giáo dục những điều học sinh cần làm. Và như thế trở thành môn “học làm người” như chúng tôi thường gọi, đã không hề trở nên nhàm chán trong 2 giờ học hàng tuần và trở thành giây phút “ nhập tâm ”, có vẻ bình lặng hơn nhưng khá thú vị sau những giờ học căng thẳng của chương trình giáo khoa. Có lần cả lớp than sao Frère nói dài quá thì Frère giải thích “các trò thường có nhiều trắc trở, lo nghĩ…vậy cách tốt nhất là Frère cần giải thích cặn kẽ cho các trò hiểu vì là lứa tuối hay quên, còn một cách nữa là hãy đến với Frère để Frère  có thể giúp điều gì cần thiết…” quả thật qua cách giáo dục của Frère chúng tôi đều hiểu Frère là một trong những vị chân tu đạo mạo nhất trong số các Frère hướng dẫn thời trung học, dù Frère không có biệt tài hướng dẫn sinh hoạt và ngoại khóa. Tôi nhớ hồi đó các Frère thường dự lễ Chủ Nhật tại lầu 3 nhà trường do Cha Đức Đan Viện Thiên Hòa cử hành hoặc đi chiếc xe Landrover đến nhà thờ Kim Mai hay Nhà thờ Chánh tòa dự lễ, lúc nào Frère Francois cũng mang theo bên mình Sách Lễ Phụng Vụ trông thật sốt sắng.

Thành phần Ban giảng huấn Lớp 8A1 như sau: Thầy Nguyễn văn Y( Nông Lâm Súc) dạy môn Vạn Vật. Thầy Căn(ở trong quân ngũ) dạy Toán, lúc này đã bỏ chương trình Tân Toán Học. Thầy Hai- là anh ruột bạn cùng lớp Nguyễn Hữu Hạnh- dạy môn Địa Lý. Môn Sử do Thầy Nguyễn Thái Đình dạy, với cá tính nghiêm khắc nhưng tận tâm sẵn sàng giải đáp các thắc mắc của học sinh, Thầy luôn dạy đúng giờ và hết giờ, hồi ấy học sinh chúng tôi thường kháo nhau câu chuyện Thầy Cô “câu giờ” dù rất ít xảy ra nhưng với Thầy Đình thì hầu như là ngoại lệ, và ở một niên khóa Thầy thường dạy ít nhất là gần hết chương trình giáo khoa. Thầy ở  căn nhà gỗ bình dị tại Xóm Đạo( hẻm Phan Chu Trinh) đi dạy bằng chiếc HonDa Đam màu đỏ và là nhà mô phạm khả kính của nhiều thế hệ tại LaSan Ban Mê Thuột cho đến năm 1975.

Môn Quốc Văn đầu năm do một Frère dạy nhưng sau đó được thay thế bởi Thầy Thành , là biên tập viên một chương trình ca nhạc và Thầy có biệt danh là Y Khiêm, Có lần Thầy xin phép Frère Hiệu Trưởng cho một số học sinh lớp tôi đến đài phát thanh ( đường Tự Do- bên hông Nhà Thờ Chánh Tòa) thu âm một bài hát dân ca và khi ấy Thầy giới thiệu “đây là tiếng hát những học trò nhỏ của tôi, xin mời quý thính giả thưởng thức và lắng nghe…” và Thầy dạy lớp tôi hát vào dịp văn nghệ Trung Thu .Nếu môn Lý Hóa năm trước được dạy bởi Frère Hoài với những bài học sống động có dụng cụ thí nghiệm nên dễ hiểu,hồi ấy cả trường LaSan không có nổi một phòng thí nghiệm dù là trường lớn, hơn nữa Frère thật ấn tượng vì có võ Taekwondo với Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng nên có mở lớp võ tại trường và có lần biểu diễn dịp Đại Hội Phụ Huynh Học Sinh., thì năm nay lại do cô Nga dạy và cách dạy của cô  không linh hoạt bằng Frère Hoài .Môn Anh Văn do cô Đinh Thị Kim Đấu – từng là thông dịch viên - dạy với cách thức lý thuyết và phát âm rất chuẩn xác, cô có mở lớp dạy kèm ngay tại một góc trong Ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp vì chồng cô là Giám Đốc và cô có xe Jeep đưa đón khi đi dạy

Thời kỳ đó Giáo dục bậc Trung Học được phân ra  hệ thống: Phổ Thông, Kỹ Thuật , Nông Lâm Súc và Tổng Hợp.Theo quy định thì các giáo chức trường công lập phải dạy tiêu chuẩn mỗi tuần 17-18 giờ , nên thời gian còn lại các Thầy Cô xin vào dạy thêm ở các trường tư thục. Như LaSan Ban Mê Thuột vẫn phải nhờ thêm các giáo chức từ ngoài vào dạy, tùy theo nhu cầu cũng như năm học,theo tôi biết LaSan đã trả lương như Đệ I cấp khoảng 200.000-230.000 đồng/ giờ, Đệ II Cấp khoảng 250.000- 280.000 đồng/ giờ(như vậy cũng khá cao và con số này có thể chênh lệch chút ít). Muốn dạy Trung Học phải có bằng Cử Nhân hay tốt nghiệp đại học Sư Phạm, tuy nhiên tùy theo trường nếu học năm thứ 2, 3…đại học cũng dạy được đệ I cấp hoặc có khi tùy theo năng khiếu ,chuyên môn mà được tuyển chọn…tuy nhiên LaSan thường chiêu mộ các thầy cô giỏi( thường ở trường công lập Tổng Hợp) để giữ uy tín và đạt kết quả cao nhất là kỳ thi Tú Tài Phổ Thông.

Ngày ấy lớp 8A1 có Lê Văn LaVang làm trưởng lớp, một bạn học khác rất khá môn Toán, Anh văn và xếp hạng 1 suốt niên khóa cũng như phần thưởng toàn trường là Vũ Kiên Chính, đây là một hiện tượng đặc biệt mặc dầu gia đình bạn không khá giả và vẻ bề ngoài của bạn thật đơn sơ, nhiều bạn học khá nữa như: Phương, Chí Toàn, Huỳnh quang…và phe nữ thì khỏi bàn vì hầu hết trên trung bình. Từ đầu năm nhiều nữ sinh ở trường Vinh Sơn và các nơi xa chuyển qua như: Thu, Tuyết, Lập…trong đó có Thu với biệt danh “Thu Slow” có cá tính dạn dĩ không hề biết sợ con trai. Sự xuất hiện của phe ‘kẹp tóc” (nữ sinh) cũng khiến phe “húi cua”( nam sinh) thiếu hẳn tự nhiên trong mọi sinh hoạt dù năm trước đã phải làm quen với tình huống này. Chẳng hạn nếu “húi cua” nghịch ngợm trong lớp sẽ bị phạt và  phe “kẹp tóc” chế nhạo ngay họặc ngược lại, thường thì phe “kẹp tóc” trầm tĩnh, ít nghịch nên thầy cô tin yêu hơn. Biện pháp kỷ luật như là “ cấm túc” theo nội quy phải đến Frère Giám Học kiểm điểm, kế đó chép phạt từ 10 trang giấy học sinh trở lên, lần sau sẽ tăng nữa và biện pháp cuối cùng là mời phụ huynh đến trường họặc đuổi học( rất ít) , mặc khác cũng xảy ra nhiều rắc rối như gán ghép chuyện ‘bồ bịch” rồi thêu dệt hoa lá cành hay viết lời chọc ghẹo rồi vo tròn ném qua ném lại…đến nỗi Frère Francois phải can thiệp, đặc biệt hơn nữa nếu “húi cua” dùng trái “móc mèo” vốn rất ngứa, mọc hoang dại xát vào chỗ ngồi của phe ‘kẹp tóc” là điều cấm kỵ sẽ bị phạt nặng.

Dù gì một kỷ niệm thật đẹp cũng đến, đó là một nhóm gồm tôi, Điền, Phương…rủ rê nhóm “ kẹp tóc” gồm: Thu, Hiến…đi picnic vào ngày nghỉ tại Hồ Trúc, cách xa phía sau trường LaSan 3-4 cây số, tụi tôi phải đi xe Lam rồi đi bộ theo đường đất khá dài mới đến nơi. Đây là cái hồ tự nhiên khá rộng, bao quanh là những cụm Trúc lớn vàng óng và rặng cổ thụ cao lớn tạo thành khung cảnh yên tĩnh thơ mộng. Lần đầu đi chơi với bạn gái cùng lớp là điều gì đó “ghê gớm” và không kém phần trọng đại, nó đánh dấu có lẽ tôi  đang vào cái độ tuổi mới lớn, biết mơ mộng và thả hồn theo những gợn mây bay bồng bềnh trên ngọn trời xanh, rồi làn gió thoảng lay nhẹ những loài hoa dại đang cùng cánh bướm nhởn nhơ…như thế cũng đủ để tôi và các bạn cảm thấy rung động. Tôi bỗng nhớ đã đọc “ buồn ơi, chào mi” tác phẩm  của Francoise Sagan [i] - diễn tả tâm trạng nỗi buồn của cô gái trẻ 17 tuổi Cécile sống trong nuông chiều và yêu Cyril, sinh viên luật khoa- cuối cùng cô gái chán chường và tìm đến cái chết với tai nạn xe hơi… và giống như tôi lúc đó bất chợt biết buồn, nhưng không thể như nhân vật Cécile…khi nhìn mặt hồ Trúc lăn tăn những gợn sóng nhỏ xô dạt,rồi  bất chợt một bạn cất tiếng hát nhẹ nhàng từ bản nhạc thịnh hành của Phạm Duy: “… tuổi là cây bút thon thon ngọc ngà/ tuổi là sách thơm trong như ngoài bìa…” rồi “ …ban phép tiên cho hoa biết nói cả tiếng người/ ban phép tiên cho người chắp cánh bay giữa đời…” và một bạn đã khắc nghệch ngoạt vào thân gốc Trúc dòng chữ ghi dấu kỷ niệm,hòa lẫn muôn vàn những nét khắc lưu dấu những cuộc đi chơi (mà dân LaSan góp mặt khá nhiều). Cuối cùng cả bọn cuốc bộ ghé trường trước khi về nhà, bất chợt cơn mưa ùa đến, tụi tôi không hẹn mà lại gặp Frère Francois đang lúi húi mấy chậu bông, Frère ngạc nhiên hỏi đi đâu lạ vậy ? một câu hỏi khó trả lời nhưng không sao…Frère cũng thông cảm! sau khi mưa tạnh thì từng bầy chim én lượn xuống từ dưới nóc mái ngói đỏ úa của giảng đường lầu 3, phía trên cùng là cây thánh giá cao sừng sững, đó là nơi chúng lập tổ và tiếng chim víu vo víu vít suốt cả ngày nhưng tôi chẳng để tâm đến bao giờ, thế mà lúc này tôi thấy thương chúng quá… và Frère nói cứ để chúng tự nhiên sinh sôi nảy nở vì là nét riêng của trường. Điều này khiến tôi nhớ ở Tòa Giám Mục có ngôi nhà nguyện trông giống Nhà Dài Êđê, trên nóc có bầy Tắc Kè trú ngụ thường phát ra tiếng kêu lớn, và khi đi lễ ai cũng thấy phân chúng thải xuống ngưỡng cửa…nhưng đó là nét rất riêng thời kỳ đó.

Đầu năm 1973, Sư Huynh Casimiz Phan Văn Chức [ii] tử Sài Gòn đã đến thăm LaSan Ban Mê Thuột , dịp này Frère đã đến lớp tôi giờ Giáo Lý để giới thiệu 2 tác phẩm mới nhất của Frère là “Giáo Dục Sinh Lý” và “Giáo Dục Thanh Thiếu Niên[iii], đây là cuốn sách viết về những vấn đề thiết thực của tuổi trẻ, giải đáp những băn khoăn suy tư, đề ra những giải pháp cấp bách và lâu dài để giải tỏa những âu lo mà thế hệ trẻ đang vướng mắc. Đây là cuốn sách có tính giáo dục giúp người trẻ tự tin để vươn lên trong môi trường học đường và xã hội. tôi đã đọc kỹ 2 cuốn này và nhận thấy các vấn đề đặt ra có vẻ quá mới, nhưng hoàn toàn hữu ích ( rất tiếc in trên giấy thường, trình bày bìa quá sơ sài và không thấy bày ở hiệu sách) theo tôi biết cũng không gây được tiếng vang lớn ?? Hôm ấy cả lớp say sưa nghe Frère Casimiz nói chuyện, riêng tôi đã biết đến Frère qua các bài viết trên báo, tạp chí. Và tôi có thể ví Frère như “ nhà thông thái” hay “ bộ óc tri thức” của Dòng LaSan cùng với Sư Huynh Mai Tâm- người đã viết tác phẩm rất nổi tiếng “ Nói Với Tuổi Trẻ” được in offsset giấy trắng tinh và cũng nội dung giáo dục tuổi trẻ.

Hồi ấy tác phẩm này của Sư Huynh Mai Tâm và tác phẩm “Nói Với Tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh [iv] được giới chuyên môn đánh giá là 2 tác phẩm duy nhất viết cho thế hệ trẻ với tâm huyết nhiệt thành nhất trước 1975. Ở cuốn sau, Nhất Hạnh có phần kêu gọi ý thức của tuổi trẻ với  tương lai đất nước như là cần học nhiều về nông nghiệp để có thêm lúa gạo, nuôi Heo, nuôi Gà Vịt…rồi các ngành kỹ thuật cơ khí…hơn là văn chương, nhân văn  lý thuyết viễn vông…Tôi được biết Frère Casimiz tốt nghiệp tiến sĩ Triết và Frère Mai Tâm là tiến sĩ Tâm Lý Giáo Dục tại đại học Sorbonne- Paris, một nơi đào tạo nhân tài nổi tiếng. Một điều nữa là 2 Frère chỉ hoạt động giáo dục thần túy chứ không tạo dựng tên tuổi để nổi tiếng hay vì động cơ vụ lợi nào khác, và như thế đã phần nào phản ảnh những tính cách đứng đắn và nhiệm vụ cũng như lý tưởng của Dòng LaSan trong giai đoạn ấy.Lần gặp Frère Casimiz đã để lại trong lòng thế hệ tôi những điều ấn tượng nhất, còn Frère Mai Tâm tôi chưa được gặp lần nào( có lẽ chưa lên LaSan Ban Mê Thuột ).Tôi nhớ có một nhà văn đã viết trong cuốn “Ngựa Chứng Trong Sân Trường[v] rằng có lẽ rồi đây các nhà giáo muốn thực thi công việc chu toàn cần khoác chiếc áo dòng đen như của các Sư Huynh…??

. Cũng trong năm Bộ Giáo Dục đã chính thức phát động môn học ‘Sinh Hoạt Học Đường” có tính bắt buộc vào niên học tới và thực hiện chương trình “Phát Thanh Học Đường” trên Đài Phát Thanh Sài Gòn, mỗi ngày 30 phút vào buổi trưa từ 12g -12g30, tức là vào giờ thuận tiện nhất lúc học sinh ăn cơm trưa hay nghỉ ngơi.

Thế rồi năm học cũng dần trôi qua, và Frère Francois Sắc như cánh chim không mỏi phải đến một nơi khác năm 1974, và là lần ra đi không trở lại vì trong một hoàn cảnh khác LaSan Ban Mê Thuột không còn hoạt động nữa. Mãi cho đến năm 1981 lúc đó tôi đang đạp xe trên đường Bạch Đằng( TP. HCM)tình cờ nhìn thấy Frère Francois đang  hướng dẫn các em bé đi vào Nhà Thờ Hàng Xanh, mừng quá tôi chạy đến hỏi thăm, lúc đó trông Frère già và ốm đi nhiều và Frère có nói “..lúc này cần cầu nguyện...vì Chúa an bài cho ta tất cả…” và Frère cũng không cho hay hiện thời đang ở đâu, lúc đó giờ lễ đã gần kề nên tôi không nói được gì thêm. Và theo dòng chảy cuộc sống tôi không gặp lại Frère nữa, và mãi sau này khi gặp lại bạn cũ hỏi thăm thì biết được Frère đã qua đời tại LaSan Mai Thôn.

Ngày đó tôi nhớ có cầm tập vở 100 trang phát hành nội bộ, phía trước in huy hiệu LaSan Ban Mê Thuột và biểu tượng con Voi, phía sau có in câu ngạn ngữ của nhà tư tưởng nào đó như sau:

“ …tôi hiểu và mơ rằng cuộc sống chính là vui thú

       tôi mơ và hiểu rằng vui thú chính là phục vụ…”

Và còn vài dòng nữa nhưng tôi quên mất như để nhớ đến Frère Francois với một cuộc đời như thế. Nhớ cả Frère Guibert Nhạc [vi], người âm thầm làm việc trật tự vệ sinh toàn trường ít khi nào cười và gầy gò với cặp kính cận dày cộm, cũng có thể ít học sinh biết Frère làm nhiều việc trong thinh lặng và luôn khiêm nhường…Nhớ nơi mái trường ngói đỏ rêu phong ngày trước có bầy chim én về đây làm tổ, và tiếng kêu của nó ríu ra ríu rít trở nên quá thân quen…mãi mãi vẫn còn tiếng chim hót trong trái tim tôi.





[i] Francoise Sagan sinh 21/6/ 1935 tạiCajiarc (Pháp), mất 24/9/2004 với sự thương tiếc cùa giới báo chí Âu Châu, của toàn nước Pháp cũng như thế giới. Bà viết 40 tác phẩm và không đoạt giải văn chương nào. “Buồn ơi, chào mi’ (Bonjours Tristesse) là tác phẩm đầu tay viết khi 18 tuổi trong 32 ngày, và chỉ 5 năm sau ngày ra mắt đã dịch 22 thứ tiếng, tiêu thụ 5 triệu bản và là sách nổi tiếng bậc nhất trong thế kỷ 20

[ii] SH. Casimiz Phan Văn Chức sinh 3/3/1920 tại miền Bắc(?) mất 11/ 9/ 2008  tại LS Mai Thôn, thọ 88 tuổi. Tham gia thành lập Đại Học Lasan 1974 và là  Hiệu Trưởng cuối cùng LaSan Taberd  NK 1975-1976.

[iii] Cũng có thể  tựa là“ Giáo Dục Tuổi Đôi Mươi”vì cách đây quá lâu.

[iv] Thượng Tọa Nhất Hạnh.

[v] Tác giả Vũ Mộng Long, chủ nhiệm Tuần Báo Tuổi Ngọc

[vi] Frère đã từng ở LaSan Adran  ĐàLạt

  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét