
Chúng tôi vẫn đang tiếp tục nhận bài dự thi, xin gửi về info@lasan150.org hay webls150@gmail.com
VẪN CÒN TIẾNG CHIM HÓT
Mùa hè 1972 kết thúc,
một mùa hè đầy rẫy những biến cố sôi động của thời cuộc trong hoàn cảnh đất nước
thời bấy giờ, những người học sinh nhỏ bé như lứa tuổi tôi dẫu vô tư thế nào
cũng khó dửng dưng trong sự biến động của dòng xoáy cuộc đời ấy. Tôi bắt đầu đặt
câu hỏi với những gì như đang hiện hữu trước mặt mình, dầu phôi phai dầu khó hiểu
? Có lúc tôi nhủ thầm tương lai sẽ đi về đâu, rồi sẽ thế nào? Và hỏi tức là có
câu trả lời, tôi hiểu phải chăng đó là một phần cái giai đoạn được ngồi ghế nhà
trường, bởi kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của chính mình…may mắn
thay, tôi đã có thể tự an tâm nhờ vào chỗ dựa khá vững chắc là gia đình và còn
phần nữa là sự giáo dục của các Sư Huynh LaSan , phải chăng chiếc áo dòng đen
khá uy nghi - với cái cổ may rabat màu trắng vuông vức chẻ giữa- như đã trấn
tĩnh tôi trước một cuộc sống luôn gợn sóng và dẫn dắt tôi những bước chân chập
chững đi vào cuộc đời…
Đó là mùa hè băn khoăn không còn quá vô tư như các mùa hè trước,
không còn quá nhiều bước chân tung tăng chạy nhảy và đi qua những miền đất thảnh
thơi, để rồi bao điều chờ đợi cũng lại đến. Đó là giây phút tựu trường Trung Học LaSan Kbuôn BanMêThuột niên khóa 1972-1973, khi tôi bước vào Lớp 8A1
thì những nụ cười tươi xinh, những cái nắm tay, rồi mùi của những sách vở bút mực
mới toanh, đã đưa tôi vào một thế giới nhà trường đầy rẫy những câu chuyện và một
tuổi thần tiên ẩn trong tiềm thức của cái thời đã trôi qua.
Năm học ấy Sư Huynh Francois Nguyễn Văn Sắc được cử phụ
trách lớp tôi và là Giám Học Trung Học Đệ I Cấp, với dáng dấp gầy guộc, mái tóc
bạc gần hết có lẽ cũng trên tuổi ngũ tuần nhưng đi đứng rất nhanh như trai trẻ,có
lẽ Frère mới đổi từ Đà Lạt về đây và trước đó trong thời kỳ thành lập LaSan
BanMêThuột những năm 60 Frère cũng từng góp sức trên vùng đất này. Frère dạy
chúng tôi môn Giáo Lý và Frère nói tiếng Pháp rất chuẩn khi dạy học, lúc đó
LaSan đã chọn Anh Văn là sinh ngữ I( SNchính) và Pháp Văn là Sinh Ngữ II( SN phụ) chỉ dạy ở lớp 11-12 cũng như hầu hết xu hướng
tại các trường khác.
Tôi ghi nhận trong suốt năm học Frère Francois có một vẻ rất
nhiệt thành, đạo đức và khi có điều cần thiết thường căn dặn rất dài, với chủ
đích giúp chúng tôi thấm đậm vào trong tâm can bởi Frère quan niệm học sinh phải
được dạy dỗ chu đáo để trở nên con người có ích cho bản thân và xã hội,.Ngay
ngày đầu Frère bắt chúng tôi ghi chép vào vở môn học Giáo Lý những dòng đầu
tiên giống như tại các nơi Frère đã từng giảng dạy:
Chiến Đấu
Con người anh dũng
không bao giờ ngưng chiến đấu.
Chiến đấu với bản thân,
Chiến đấu trước mọi cám dỗ của tội lỗi và sự dữ.
Chiến đấu trong lúc
gian nan.
Chiến đấu để xứng đáng
là môn đệ của Chúa KiTo…
Riêng dòng cuối cùng tôi có thể nhớ không trọn vẹn. Môn Giáo Lý ngoài việc trích dẫn kinh
thánh để nhận biết chân lý Chúa Kito và có thể nhận ra ngay trong thực tại trần
gian ở những diễn tiến của thế giới
đương đại, và giáo dục những điều học sinh cần làm. Và như thế trở thành môn “học làm người” như chúng tôi thường gọi,
đã không hề trở nên nhàm chán trong 2 giờ học hàng tuần và trở thành giây phút
“ nhập tâm ”, có vẻ bình lặng hơn nhưng khá thú vị sau những giờ học căng thẳng
của chương trình giáo khoa. Có lần cả lớp than sao Frère nói dài quá thì Frère
giải thích “các trò thường có nhiều trắc trở, lo nghĩ…vậy cách tốt nhất là
Frère cần giải thích cặn kẽ cho các trò hiểu vì là lứa tuối hay quên, còn một
cách nữa là hãy đến với Frère để Frère
có thể giúp điều gì cần thiết…” quả thật qua cách giáo dục của Frère
chúng tôi đều hiểu Frère là một trong những vị chân tu đạo mạo nhất trong số
các Frère hướng dẫn thời trung học, dù Frère không có biệt tài hướng dẫn sinh
hoạt và ngoại khóa. Tôi nhớ hồi đó các Frère thường dự lễ Chủ Nhật tại lầu 3
nhà trường do Cha Đức – Đan Viện Thiên
Hòa cử hành hoặc đi chiếc xe Landrover đến nhà thờ Kim Mai hay Nhà thờ Chánh
tòa dự lễ, lúc nào Frère Francois cũng mang theo bên mình Sách Lễ Phụng Vụ trông
thật sốt sắng.
Thành phần Ban giảng huấn Lớp 8A1 như sau: Thầy Nguyễn
văn Y( Nông Lâm Súc) dạy môn Vạn Vật. Thầy Căn(ở trong quân ngũ) dạy
Toán, lúc này đã bỏ chương trình Tân Toán Học. Thầy Hai- là anh ruột bạn cùng lớp Nguyễn Hữu Hạnh- dạy môn Địa Lý. Môn
Sử do Thầy Nguyễn Thái Đình dạy, với cá tính nghiêm khắc nhưng tận tâm sẵn
sàng giải đáp các thắc mắc của học sinh, Thầy luôn dạy đúng giờ và hết giờ, hồi
ấy học sinh chúng tôi thường kháo nhau câu chuyện Thầy Cô “câu giờ” dù rất ít xảy
ra nhưng với Thầy Đình thì hầu như là ngoại lệ, và ở một niên khóa Thầy thường dạy
ít nhất là gần hết chương trình giáo khoa. Thầy ở căn nhà gỗ bình dị tại Xóm Đạo( hẻm Phan Chu
Trinh) đi dạy bằng chiếc HonDa Đam màu đỏ và là nhà mô phạm khả kính của nhiều
thế hệ tại LaSan Ban Mê Thuột cho đến năm 1975.
Môn Quốc Văn đầu năm do một Frère dạy nhưng sau đó được thay
thế bởi Thầy Thành , là biên tập viên một chương trình ca nhạc và Thầy có biệt
danh là Y Khiêm, Có lần Thầy xin phép Frère Hiệu Trưởng cho một số học sinh lớp
tôi đến đài phát thanh ( đường Tự Do- bên hông Nhà Thờ Chánh Tòa) thu âm một
bài hát dân ca và khi ấy Thầy giới thiệu “đây
là tiếng hát những học trò nhỏ của
tôi, xin mời quý thính giả thưởng thức và lắng nghe…” và Thầy dạy lớp tôi
hát vào dịp văn nghệ Trung Thu .Nếu môn Lý Hóa năm trước được dạy bởi Frère Hoài với
những bài học sống động có dụng cụ thí nghiệm nên dễ hiểu,hồi ấy cả trường
LaSan không có nổi một phòng thí nghiệm dù là trường lớn, hơn nữa Frère thật ấn
tượng vì có võ Taekwondo với Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng nên có mở lớp võ tại trường
và có lần biểu diễn dịp Đại Hội Phụ Huynh Học Sinh., thì năm nay lại do cô Nga dạy
và cách dạy của cô không linh hoạt bằng
Frère Hoài .Môn Anh Văn do cô Đinh Thị Kim Đấu – từng là thông dịch
viên - dạy với cách thức lý thuyết và phát âm rất chuẩn xác, cô có mở lớp dạy
kèm ngay tại một góc trong Ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp vì chồng cô là Giám
Đốc và cô có xe Jeep đưa đón khi đi dạy
Thời kỳ đó Giáo dục bậc Trung Học được phân ra hệ thống: Phổ Thông, Kỹ Thuật , Nông Lâm Súc
và Tổng Hợp.Theo quy định thì các giáo chức trường công lập phải dạy tiêu chuẩn
mỗi tuần 17-18 giờ , nên thời gian còn lại các Thầy Cô xin vào dạy thêm ở các
trường tư thục. Như LaSan Ban Mê Thuột vẫn phải nhờ thêm các giáo chức từ ngoài
vào dạy, tùy theo nhu cầu cũng như năm học,theo tôi biết LaSan đã trả lương như
Đệ I cấp khoảng 200.000-230.000 đồng/ giờ, Đệ II Cấp khoảng 250.000- 280.000 đồng/
giờ(như vậy cũng khá cao và con số này có thể chênh lệch chút ít). Muốn dạy
Trung Học phải có bằng Cử Nhân hay tốt nghiệp đại học Sư Phạm, tuy nhiên tùy
theo trường nếu học năm thứ 2, 3…đại học cũng dạy được đệ I cấp hoặc có khi tùy
theo năng khiếu ,chuyên môn mà được tuyển chọn…tuy nhiên LaSan thường chiêu mộ
các thầy cô giỏi( thường ở trường công lập Tổng Hợp) để giữ uy tín và đạt kết
quả cao nhất là kỳ thi Tú Tài Phổ Thông.
Ngày ấy lớp 8A1 có Lê Văn LaVang làm trưởng lớp, một bạn
học khác rất khá môn Toán, Anh văn và xếp hạng 1 suốt niên khóa cũng như phần
thưởng toàn trường là Vũ Kiên Chính, đây là một hiện tượng đặc biệt mặc dầu gia
đình bạn không khá giả và vẻ bề ngoài của bạn thật đơn sơ, nhiều bạn học khá nữa
như: Phương,
Chí Toàn, Huỳnh quang…và phe nữ thì khỏi bàn vì hầu hết trên trung
bình. Từ đầu năm nhiều nữ sinh ở trường Vinh Sơn và các nơi xa chuyển qua như: Thu,
Tuyết, Lập…trong đó có Thu với biệt danh “Thu Slow” có cá tính dạn
dĩ không hề biết sợ con trai. Sự xuất hiện của phe ‘kẹp tóc” (nữ sinh) cũng khiến phe “húi cua”( nam sinh) thiếu hẳn tự nhiên trong mọi sinh hoạt dù năm
trước đã phải làm quen với tình huống này. Chẳng hạn nếu “húi cua” nghịch ngợm trong lớp sẽ bị phạt và phe “kẹp tóc” chế nhạo ngay họặc ngược lại,
thường thì phe “kẹp tóc” trầm tĩnh,
ít nghịch nên thầy cô tin yêu hơn. Biện pháp kỷ luật như là “ cấm túc” theo nội quy phải đến Frère
Giám Học kiểm điểm, kế đó chép phạt từ 10 trang giấy học sinh trở lên, lần sau
sẽ tăng nữa và biện pháp cuối cùng là mời phụ huynh đến trường họặc đuổi học( rất
ít) , mặc khác cũng xảy ra nhiều rắc rối như gán ghép chuyện ‘bồ bịch” rồi thêu
dệt hoa lá cành hay viết lời chọc ghẹo rồi vo tròn ném qua ném lại…đến nỗi
Frère Francois phải can thiệp, đặc
biệt hơn nữa nếu “húi cua” dùng trái
“móc mèo” vốn rất ngứa, mọc hoang dại xát vào chỗ ngồi của phe ‘kẹp tóc” là điều cấm kỵ sẽ bị phạt nặng.
Dù gì một kỷ niệm thật đẹp cũng đến, đó là một nhóm gồm tôi,
Điền, Phương…rủ rê nhóm “ kẹp
tóc” gồm: Thu, Hiến…đi picnic vào ngày nghỉ tại Hồ Trúc, cách xa phía sau
trường LaSan 3-4 cây số, tụi tôi phải đi xe Lam rồi đi bộ theo đường đất khá
dài mới đến nơi. Đây là cái hồ tự nhiên khá rộng, bao quanh là những cụm Trúc lớn
vàng óng và rặng cổ thụ cao lớn tạo thành khung cảnh yên tĩnh thơ mộng. Lần đầu
đi chơi với bạn gái cùng lớp là điều gì đó “ghê gớm” và không kém phần trọng đại,
nó đánh dấu có lẽ tôi đang vào cái độ tuổi
mới lớn, biết mơ mộng và thả hồn theo những gợn mây bay bồng bềnh trên ngọn trời
xanh, rồi làn gió thoảng lay nhẹ những loài hoa dại đang cùng cánh bướm nhởn
nhơ…như thế cũng đủ để tôi và các bạn cảm thấy rung động. Tôi bỗng nhớ đã đọc “
buồn ơi, chào mi” tác phẩm của Francoise
Sagan [i]
- diễn tả tâm trạng nỗi buồn của cô gái trẻ 17 tuổi Cécile sống trong nuông chiều
và yêu Cyril, sinh viên luật khoa- cuối cùng cô gái chán chường và tìm đến cái
chết với tai nạn xe hơi… và giống như tôi lúc đó bất chợt biết buồn, nhưng
không thể như nhân vật Cécile…khi nhìn mặt hồ Trúc lăn tăn những gợn sóng nhỏ
xô dạt,rồi bất chợt một bạn cất tiếng
hát nhẹ nhàng từ bản nhạc thịnh hành của Phạm Duy: “… tuổi là cây bút thon thon ngọc ngà/ tuổi là sách thơm trong như ngoài
bìa…” rồi “ …ban phép tiên cho hoa biết
nói cả tiếng người/ ban phép tiên cho người chắp cánh bay giữa đời…” và một
bạn đã khắc nghệch ngoạt vào thân gốc Trúc dòng chữ ghi dấu kỷ niệm,hòa lẫn
muôn vàn những nét khắc lưu dấu những cuộc đi chơi (mà dân LaSan góp mặt khá
nhiều). Cuối cùng cả bọn cuốc bộ ghé trường trước khi về nhà, bất chợt cơn mưa
ùa đến, tụi tôi không hẹn mà lại gặp Frère Francois đang lúi húi mấy chậu bông,
Frère ngạc nhiên hỏi đi đâu lạ vậy ? một câu hỏi khó trả lời nhưng không
sao…Frère cũng thông cảm! sau khi mưa tạnh thì từng bầy chim én lượn xuống từ
dưới nóc mái ngói đỏ úa của giảng đường lầu 3, phía trên cùng là cây thánh giá
cao sừng sững, đó là nơi chúng lập tổ và tiếng chim víu vo víu vít suốt cả ngày
nhưng tôi chẳng để tâm đến bao giờ, thế mà lúc này tôi thấy thương chúng quá…
và Frère nói cứ để chúng tự nhiên sinh sôi nảy nở vì là nét riêng của trường.
Điều này khiến tôi nhớ ở Tòa Giám Mục có ngôi nhà nguyện trông giống Nhà Dài
Êđê, trên nóc có bầy Tắc Kè trú ngụ thường phát ra tiếng kêu lớn, và khi đi lễ
ai cũng thấy phân chúng thải xuống ngưỡng cửa…nhưng đó là nét rất riêng thời kỳ
đó.
Đầu năm 1973, Sư Huynh Casimiz Phan Văn Chức [ii]
tử Sài Gòn đã đến thăm LaSan Ban Mê Thuột , dịp này Frère đã đến lớp tôi giờ
Giáo Lý để giới thiệu 2 tác phẩm mới nhất của Frère là “Giáo Dục Sinh Lý” và “Giáo Dục
Thanh Thiếu Niên” [iii], đây
là cuốn sách viết về những vấn đề thiết thực của tuổi trẻ, giải đáp những băn
khoăn suy tư, đề ra những giải pháp cấp bách và lâu dài để giải tỏa những âu lo
mà thế hệ trẻ đang vướng mắc. Đây là cuốn sách có tính giáo dục giúp người trẻ
tự tin để vươn lên trong môi trường học đường và xã hội. tôi đã đọc kỹ 2 cuốn
này và nhận thấy các vấn đề đặt ra có vẻ quá mới, nhưng hoàn toàn hữu ích ( rất
tiếc in trên giấy thường, trình bày bìa quá sơ sài và không thấy bày ở hiệu
sách) theo tôi biết cũng không gây được tiếng vang lớn ?? Hôm ấy cả lớp say sưa
nghe Frère Casimiz nói chuyện, riêng tôi đã biết đến Frère qua các bài viết
trên báo, tạp chí. Và tôi có thể ví Frère như “ nhà thông thái” hay “ bộ óc tri
thức” của Dòng LaSan cùng với Sư Huynh Mai Tâm- người đã viết tác phẩm rất
nổi tiếng “ Nói Với Tuổi Trẻ” được in
offsset giấy trắng tinh và cũng nội dung giáo dục tuổi trẻ.
Hồi ấy tác phẩm này của Sư Huynh Mai Tâm và tác phẩm “Nói Với Tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh [iv]
được giới chuyên môn đánh giá là 2 tác phẩm duy nhất viết cho thế hệ trẻ với
tâm huyết nhiệt thành nhất trước 1975. Ở cuốn sau, Nhất Hạnh có phần kêu
gọi ý thức của tuổi trẻ với tương lai đất
nước như là cần học nhiều về nông nghiệp để có thêm lúa gạo, nuôi Heo, nuôi Gà
Vịt…rồi các ngành kỹ thuật cơ khí…hơn là văn chương, nhân văn lý thuyết viễn vông…Tôi được biết Frère Casimiz
tốt nghiệp tiến sĩ Triết và Frère Mai Tâm là tiến sĩ Tâm Lý Giáo Dục tại
đại học Sorbonne- Paris, một nơi đào tạo nhân tài nổi tiếng. Một điều nữa là 2
Frère chỉ hoạt động giáo dục thần túy chứ không tạo dựng tên tuổi để nổi tiếng
hay vì động cơ vụ lợi nào khác, và như thế đã phần nào phản ảnh những tính cách
đứng đắn và nhiệm vụ cũng như lý tưởng của Dòng LaSan trong giai đoạn ấy.Lần gặp
Frère Casimiz đã để lại trong lòng thế hệ tôi những điều ấn tượng nhất,
còn Frère Mai Tâm tôi chưa được gặp lần nào( có lẽ chưa lên LaSan Ban Mê
Thuột ).Tôi nhớ có một nhà văn đã viết trong cuốn “Ngựa Chứng Trong Sân Trường”
[v] rằng có
lẽ rồi đây các nhà giáo muốn thực thi công việc chu toàn cần khoác chiếc áo
dòng đen như của các Sư Huynh…??
. Cũng trong năm Bộ Giáo Dục đã chính thức phát động môn học
‘Sinh Hoạt Học Đường” có tính bắt buộc vào niên học tới và thực hiện chương
trình “Phát Thanh Học Đường” trên Đài Phát Thanh Sài Gòn, mỗi ngày 30 phút vào
buổi trưa từ 12g -12g30, tức là vào giờ thuận tiện nhất lúc học sinh ăn cơm
trưa hay nghỉ ngơi.
Thế rồi năm học cũng dần trôi qua, và Frère Francois
Sắc như cánh chim không mỏi phải đến một nơi khác năm 1974, và là lần
ra đi không trở lại vì trong một hoàn cảnh khác LaSan Ban Mê Thuột không còn hoạt
động nữa. Mãi cho đến năm 1981 lúc đó tôi đang đạp xe trên đường Bạch Đằng( TP.
HCM)tình cờ nhìn thấy Frère Francois đang
hướng dẫn các em bé đi vào Nhà Thờ Hàng Xanh, mừng quá tôi chạy đến hỏi
thăm, lúc đó trông Frère già và ốm đi nhiều và Frère có nói “..lúc này cần cầu
nguyện...vì Chúa an bài cho ta tất cả…” và Frère cũng không cho hay hiện thời
đang ở đâu, lúc đó giờ lễ đã gần kề nên tôi không nói được gì thêm. Và theo
dòng chảy cuộc sống tôi không gặp lại Frère nữa, và mãi sau này khi gặp lại bạn
cũ hỏi thăm thì biết được Frère đã qua đời tại LaSan Mai Thôn.
Ngày đó tôi nhớ có cầm tập vở 100 trang phát hành nội bộ,
phía trước in huy hiệu LaSan Ban Mê Thuột và biểu tượng con Voi, phía sau có in
câu ngạn ngữ của nhà tư tưởng nào đó như sau:
“ …tôi hiểu và mơ rằng
cuộc sống chính là vui thú
tôi mơ và hiểu rằng vui thú chính là phục
vụ…”
Và còn vài dòng nữa nhưng tôi quên mất như để nhớ đến Frère Francois với một cuộc đời như thế. Nhớ cả Frère Guibert
Nhạc [vi],
người âm thầm làm việc trật tự vệ sinh toàn trường ít khi nào cười và gầy gò với
cặp kính cận dày cộm, cũng có thể ít học sinh biết Frère làm nhiều việc trong
thinh lặng và luôn khiêm nhường…Nhớ nơi mái trường ngói đỏ rêu phong ngày trước
có bầy chim én về đây làm tổ, và tiếng kêu của nó ríu ra ríu rít trở nên quá
thân quen…mãi mãi vẫn còn tiếng chim hót trong trái tim tôi.
[i] Francoise Sagan sinh 21/6/ 1935 tạiCajiarc (Pháp), mất
24/9/2004 với sự thương tiếc cùa giới báo chí Âu Châu, của toàn nước Pháp cũng như thế giới. Bà viết 40 tác phẩm và
không đoạt giải văn chương nào. “Buồn
ơi, chào mi’ (Bonjours Tristesse) là tác phẩm đầu tay viết khi 18 tuổi
trong 32 ngày, và chỉ 5 năm sau ngày ra mắt đã dịch 22 thứ tiếng, tiêu thụ 5
triệu bản và là sách nổi tiếng bậc nhất trong thế kỷ 20
[ii] SH. Casimiz Phan Văn Chức sinh 3/3/1920 tại miền
Bắc(?) mất 11/ 9/ 2008 tại LS Mai Thôn,
thọ 88 tuổi. Tham gia thành lập Đại Học Lasan 1974 và là Hiệu Trưởng cuối cùng LaSan Taberd NK 1975-1976.
[iii] Cũng có thể
tựa là“ Giáo Dục Tuổi Đôi Mươi”vì cách đây quá lâu.
[iv] Thượng Tọa Nhất Hạnh.
[v] Tác giả Vũ Mộng Long, chủ nhiệm Tuần Báo Tuổi Ngọc
[vi] Frère đã từng ở LaSan Adran ĐàLạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét